Tuesday, 2 November 2010

Phỏng vấn Trần Đạo Minh

Được xếp vào hàng những diễn viên có thù lao cao nhất Trung Quốc hiện nay, diễn viên nam chính của "Ly hôn kiểu Trung Quốc" Trần Đạo Minh còn được xem là một trong “Thập đại minh tinh” của điện ảnh đại lục.

- Đảm nhiệm vai chính, điều anh cảm nhận được trong "Ly hôn kiểu Trung Quốc" là gì?

- Đây là bộ phim kể về câu chuyện hôn nhân từ góc độ của người đàn ông. Nội dung phim rất đơn giản, có vẻ như một cuộc sống bình dị nhưng không bình thường. Quan hệ vợ chồng luôn ẩn chứa những nguy cơ, chỉ cần khẽ chạm tới là có thể bùng nổ. Phim đã lột tả ba sự phản bội của con tim, của thể xác và sự phản bội của cả con tim lẫn thể xác. Trong bối cảnh xã hội đầy rẫy cơ hội và thách thức, cởi mở và truyền thống, trung thành và phản bội đan xen, phim đã miêu tả hạnh phúc và khổ đau do hôn nhân đem lại.

Trần Đạo Minh trong 'Hero'

Trần Đạo Minh trong "Hero"

- Vai diễn bác sĩ Tống Kiện Bình mang lại điều gì cho anh?

- Thú thực là khi bé, tôi từng mơ ước mình sẽ trở thành bác sĩ, quan chức ngoại giao hoặc luật sư. Nhưng khi đã trở thành diễn viên, tôi biết mơ ước của mình chỉ có thể thực hiện qua vai diễn. Tôi từng vào vai quan chức ngoại giao và lần này là vai bác sĩ. Chỉ còn nhân vật luật sư là tôi chưa có cơ hội thể hiện.

- Nghe nói anh rất sợ bị phỏng vấn và thường đeo kính đen mỗi khi xuất hiện trước báo giới ở nơi công cộng?

- Đúng vậy. Tôi thấy sợ khi phóng viên hỏi những điều to tát quá, nào là vai diễn có gì đột phá, hay làm thế nào để nâng cao cảm thụ… Tôi chẳng biết trả lời thế nào, bởi vì đã bao giờ tôi nghĩ đến những điều ấy đâu. Còn đeo kính đen, có lẽ đó là thói quen xấu của tôi. Đương nhiên không phải để trốn phóng viên rồi.

- Nhiều người nói anh không thích được gọi là “minh tinh”, tại sao vậy?

- Nghề của tôi từ xưa vẫn gọi là diễn viên. Vậy thì chỉ có ba hạng là diễn viên giỏi, diễn viên trung bình và diễn viên tồi, cần gì phải dùng đến từ “minh tinh”? Theo tôi, đây là một nghề khác biệt trong xã hội, họ thu hút được sự chú ý của mọi người. Một diễn viên có thể được diễn đủ các loại vai chưa hẳn đã là diễn viên giỏi. Cái giỏi là trí tuệ và sức hấp dẫn nơi bản thân người ấy. Đó là sự từng trải và phải có kinh nghiệm phong phú. Như Robert De Niro hay Al Pacino chẳng hạn, họ đều là những diễn viên từng trải và có thực lực. Còn như “chàng Jack” Leonardo DiCaprio của Titanic chỉ là “minh tinh” lóe sáng trong chốc lát mà thôi. Chỉ tiếc, ở Trung Quốc hiện nay người ta còn ít chú ý đến sức hấp dẫn của diễn viên.

Trần Đạo Minh và các diễn viên nổi tiếng của Hong Kong trong "Vô gian đạo 3"

- Thường thì các minh tinh ít khi chịu hạ mức thù lao của mình, còn anh thế nào?

- May quá, tôi không phải là “minh tinh” nên chẳng áp dụng tiêu chuẩn đó bao giờ. Được tiền thù lao cao chưa hẳn đã là diễn viên giỏi, và tôi cũng không bao giờ lấy giá trị thương mại ra làm tiêu chuẩn để đánh giá một diễn viên.

- Nhưng thực tế hiện nay, ngay cả giải Kim Kê cũng có yếu tố tiền thù lao. Anh không nghĩ quan niệm của mình là lạc hậu?

- Đó là mọi người nhìn từ góc độ thương mại, còn tôi nhìn bằng ánh mắt của một diễn viên chuyên nghiệp. Đây là hai phạm trù khác nhau, thế nên nếu ai đó cho tôi là lạc hậu cũng chẳng sao.

(Theo Thể Thao & Văn Hóa)

Tuesday, 26 October 2010

Diễn viên Trần Đạo Minh (Chen Daoming)

Trần Đạo Minh - Chen Daoming

Trần Đạo Minh sinh ngày 26/04/1955 tại thành phố Thiên Tân, Trung Quốc.

Năm 1971 học ngành biểu diễn sân khấu ở Kịch viện nghệ thuật nhân dân Thiên Tân. Năm 1978 vào Học viện hí kịch Trung ương học tập, nghiên cứu lý luận biểu diễn. Năm 1985 nhờ bộ phim truyền hình “Mạt đại hoàng đế” trở thành một diễn viên nổi tiếng. Năm 1990 “Vi thành” bộ phim khẳng định địa vị của ông trong giới diễn viên truyền hình Trung Quốc. Trần Đạo Minh nhờ vào khả năng biểu diễn sâu sắc, tinh tế đối với những vai diễn mà tạo ra từng hình tượng nghệ thuật khó quên Cho đến nay, ông là 1 nhà biểu diễn nghệ thuật ưu tú nhất của Trung Quốc.



Tên thật: Chen Daoming (陈道明)
Tên tiếng Việt: Trần Đạo Minh
Ngày sinh: 26/04/1955
Chiều cao:1.78m
Nhóm máu: O
Quê quán: Thiệu Hưng, Chiết Giang
Trình độ: Đại học (Học viện hí kịch Trung ương)
Tình trạng hôn nhân: Đã kết hôn (Vợ: Du Xian-杜宪)
Môn thể thao yêu thích: Bóng rổ
Nhạc cụ yêu thích: Piano
Ngày yêu thích: Ngày sinh nhật
Sở thích: đọc sách, viết chữ, đàn piano
Ưu điểm: Có cá tính, có tính hài hước, lý trí
Nhược điểm: hút thuốc, khi ngủ không nghe điện thoại
Tác phẩm truyền hình yêu thích nhất: “Nhị mã”(二马)

Tác phẩm và thành tựu

1988: Giải thưởng phim truyền hình toàn quốc lần thứ 7 “Giải Kim Ưng”(金鹰奖) nam diễn viên xuất sắc nhất.
Giải thưởng phim truyền hình toàn quốc lần thứ 9 “Giải Phi Thiên”(飞天奖) nam diễn viên chính ưu tú nhất.
(Tác phẩm: Mạt Đại Hoàng Đế)

1990: Giải thưởng lần thứ 3 của Hội biểu diễn nghệ thuật Trung Quốc.
Giải thưởng toàn quốc “制片场” lần thứ 2 nam diễn viên chính phim truyền hình xuất sắc nhất.
Giải thưởng phim truyền hình toàn quốc lần thứ 11 “Giải Phi Thiên” nam diễn viên chính ưu tú nhất.
(Tác phẩm: Vi thành)

1991: Lễ trao giải điện ảnh quốc tế Tứ Xuyên, giải “Kim hùng miêu”(金熊猫奖) nam diễn viên chính xuất sắc nhất.
(Tác phẩm: Vi thành)

1995: Danh hiệu Trung quốc “Thập đại ảnh tinh”.(中国十大影星)

1996: Giải thưởng thành tựu biểu diễn của hiệp hội điện ảnh Trung Quốc.

2000: Giải thưởng điện ảnh Trung Quốc “Hoa biểu” (华表奖) nam diễn viên ưu tú nhất.
Giải thưởng lần thứ 23 “Giải Kim Kê” nam diễn viên chính xuất sắc nhất.
(Tác phẩm: Năm 1919 của tôi)

2002: Giải thưởng phim truyền hình toàn quốc lần thứ 20 “Giải Kim Ưng”(金鹰奖) nam diễn viên xuất sắc nhất.
(Tác phẩm: Khang Hi Đế quốc)

Các phim đã tham gia:

Phim truyền hình:

1984: Mạt Đại Hoàng Đế (末代皇帝)

1989: Anh Hoa Mộng (樱花梦)

1990: Vi Thành(围城)

1992: Bắc Dương Thủy Sư(北洋水师)

1994: Nhất Địa Kê Mao(一地鸡毛)

1995: Loạn Thế Thanh Lâu (乱世青楼)
Người Thượng Hải ở Tokyo(上海人在东京)

1996: Hồ Tuyết Nham (胡雪岩)

1997: Nhị Mã (二马)

1998: Thiệu Hưng Sư Gia(绍兴师爷)
Nữ Tuần Án(女巡按)

1999: Thiếu Niên Bao Thanh Thiên (少年包青天)

2000: Thượng Phương Bảo Kiếm (尚方宝剑)
Trường Chinh (长征)
Khang Hi Đế Quốc (康熙帝国)

2001: Hắc Động (黑洞)
Hồn Đoạn Tần Hoài (魂断秦淮)
Đại Hán Thiên Tử (大汉天子)

2003: Đông Chí (冬至)
Ly Hôn Kiểu Trung Quốc (中国式离婚)

2004: Giang Sơn Phong Vũ Tình(江山风雨情)
Dòng Sông Chảy Về Hướng Đông(一江春水向东流)

Phim điện ảnh:

1982: Kim Dạ Hữu Bạo Phong Tuyết(Đêm nay có gió tuyết lớn) (今夜有暴风雪)

1983: Một Và Tám (一个和八个)

1986: Đồ Thành Huyết Chứng(屠城血证)

1987: Nhất Đại Yêu Hậu (一代妖后)

1989: Bát Kỳ Tử Đệ (八旗子弟)

1990: Quan Công (关公)

1995: Vũ Triều (舞潮)
Đào Hoa Mãn Thiên Hồng (桃花满天红)

1999: Năm 1919 Của Tôi (我的1919)

2001: Anh Hùng (英雄)

2002: Tim Tôi Bay Lượn (我心飞翔)

2003: Vô Gian Đạo III ( 无间道 III)

2010: Đường Sơn đại địa chấn (Aftershock)

Bài hát:

1990 Tha Thứ Tình Yêu Của Tôi (宽恕我的爱)
Đừng Nói (不说)